CÔNG NGHỆ XỬ LÝ ĐẤT HIẾM VIỆT NAM

Các nhà khoa học đề xuất tạo ra công nghệ có thể chế biến các thành phần quan trọng như Pr và Nd và tạo ra một trung tâm chuyển giao làm chủ công nghệ chính.

Vừa qua, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phối hợp cùng Bộ Khoa học và Công nghệ đã tổ chức Hội thảo "Đất hiếm Việt Nam - Thực trạng công nghệ khai thác, chế biến và triển vọng" để thảo luận về chủ đề này.

Theo GS Nguyễn Quang Liêm, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, Việt Nam có khoảng 22 triệu tấn đất hiếm, đứng thứ hai sau Trung Quốc (38%), chiếm 19% trữ lượng thế giới. Nhưng việc khai thác ở một số mỏ như Nậm Xe, Đông Pao (Lai Châu) và Yên Phú (Yên Bái) còn nhỏ lẻ và công nghiệp sử dụng đất hiếm còn hiếm.

Theo GS Liêm, quá trình khai thác và chế biến quặng tinh sử dụng hóa chất chiết độc hại và gây ô nhiễm môi trường. Ông Liêm nói rằng "lợi nhuận kinh tế cao phần lớn ở các ứng dụng đất hiếm" và cho biết các quốc gia sử dụng đất hiếm nhiều nhất là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, EU và Hàn Quốc. Do đó ông đề xuất xây dựng dự án và phòng thí nghiệm nâng cao năng lực nghiên cứu, công nghệ khai thác chế biến, trong đó tập trung chế biến sâu và ứng dụng đất hiếm trong những sản phẩm công nghiệp có giá trị kinh tế cao.

 

 

Theo Phó Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu, PGS.TS Hoàng Anh Sơn, công nghệ chế biến sâu được giữ kín, bí mật và không được chuyển giao. Xuất khẩu của Trung Quốc vào năm 2020 là khoảng 140 nghìn tấn, chiếm 57% thị phần; xuất khẩu của Mỹ là 38 nghìn tấn; Myanmar là 30 nghìn tấn; Australia là 17 nghìn tấn; và Ấn Độ là 3.000 tấn.

Theo PGS Sơn, các nhà khoa học Việt Nam đã tiến hành nhiều nghiên cứu trong nhiều năm qua liên quan đến đất hiếm và đã phát triển nhiều bằng sáng chế hữu ích. Nó bao gồm sử dụng đất hiếm làm vật liệu xúc tác, sản xuất nam châm đất hiếm NdFeB và lắp đặt các máy phát thủy điện nhỏ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Hà Giang và Nghệ An.

Ngoài ra, ông Sơn thừa nhận rằng công nghệ tuyển dụng không tốt, tỷ lệ thực thu đất thấp và các tạp chất gây hại. Như đã thấy ở mỏ đất hiếm Lai Châu, vẫn chưa tìm ra cách tuyển quặng tốt nhất. Tuy nhiên, không có nhà máy nào tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu từ tinh quặng. Công nghệ phân chia và làm sạch mới được sử dụng hiện tại trong phòng thí nghiệm. Việc sản xuất kim loại từ đất hiếm đòi hỏi trình độ công nghệ cao. Ông thông tin rằng các công nghệ được phát triển để ứng dụng cho ngành xe điện, điện gió và quốc phòng hiện chưa bắt đầu được sử dụng ở Việt Nam.

Theo định hướng giai đoạn 2023–2028 và tầm nhìn đến 2045, Việt Nam sẽ tập trung vào việc phát triển công nghệ chế biến đất hiếm có hàm lượng oxit đất hiếm tối thiểu 95% để đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Chế biến sâu các kim loại có nguyên tố đất hiếm (Nd, Dy, Pr) cũng hỗ trợ các chiến lược chuyển đổi năng lượng và giao thông không phát thải. PGS Sơn nói rằng, khi Việt Nam dần trở thành khu vực thu hút đầu tư cho các ngành xe điện, năng lượng mới cần phát triển nội lực công nghệ chế tạo kim loại đất hiếm khi được sử dụng làm nguyên liệu chiến lược để nắm quyền chủ động hợp tác.

 

 

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt tuyên bố rằng họ sẽ tổng hợp và báo cáo với chính phủ để đưa ra giải pháp khai thác và chế biến đất hiếm hợp lý và hiệu quả phù hợp với định hướng phát triển theo đề xuất của các chuyên gia.